Lê Văn Thịnh (1040 - 1096) được coi là vị trạng nguyên đầu tiên trong
lịch sử khoa bảng Việt Nam. Ông là người đỗ cao nhất trong khoa thi đầu
tiên của nhà Lý tổ chức năm 1075, trải qua nhiều chức quan rồi làm tới
chức Thái sư – quan đầu triều. Tuy nhiên, một sự việc kỳ quặc có một
không hai đã xảy ra năm 1095, để rồi ông bị cách hết chức tước, đày đi
Thanh Hóa và qua đời ở miền biên viễn năm 1096.
Kim bảng quải danh đề
Theo sử sách tương truyền, Lê Văn Thịnh sinh
ngày 11 tháng 2 năm Canh Thìn (1040) ở khu Bảo Tháp, sau là làng Bảo
Tháp, xã Đông Cứu, huyện Gia Lương, tỉnh Bắc Ninh. Bố là cụ Lê Thành,
dạy học và làm thuốc. Mẹ là cụ Trần Thị Tín, người làng Ngô Xá (sau là
thôn Thị Xá, xã Cách Bi, huyện Quế Võ). Lên 7 tuổi Lê Văn Thịnh được cha
mẹ cho đi học, đến 13 tuổi đã thông hiểu kinh sử thi thư, trên thông
thiên văn dưới tường địa lý, học trò thời ấy thán phục, thảy đều gọi
Thịnh là thần đồng. Đến năm 18 tuổi, bố mẹ mất, ông lo an táng và ở nhà
hương khói phụng thờ. Sau 3 năm, ông dựng trường dạy học ở thôn Chi Nhị,
xã Song Giang, huyện Gia Lương. Đến thời Lý Nhân Tông nối nghiệp bình
trị, triều đình nhà Lý lần đầu tổ chức khoa thi mang tên Minh kinh Bác
sĩ và Nho học Tam trường, Lê Văn Thịnh đi thi và đỗ đầu, được phong ngay
chức Thị độc (dạy vua học) rồi làm Binh bộ Thị lang, tiếp tục làm đến
chức Lang trung binh bộ.
Bức tượng thái sư Lê Văn Thịnh |
Kỳ án hồ Dâm Đàm
Một người như Lê Văn Thịnh có thể nói đã
đạt tới chỗ công danh tột bậc, nức tiếng cả nước. Thế nhưng không ngờ
cuối đời lại dính vào sự việc kỳ quặc có một không hai, cho đến nay vẫn
chưa có lời giải thích rõ ràng. Chỉ biết các sách sử như Đại Việt sử
lược (thời Trần) và Đại Việt sử ký toàn thư (bộ thời Hậu Lê) ghi lại sự
việc như sau: Vào quãng mùa đông tháng 11 năm Ất Hợi (1095), vua Lý Nhân
Tông cùng các triều thần dong thuyền dạo chơi trên Hồ Tây để thưởng
ngoạn cảnh đẹp thái bình, sau những ngày chiến trang gian khổ. Thuyền ra
đến giữa hồ thì sương mù tỏa xuống che kín thuyền ngự, làm cảnh vật mờ
ảo muôn phần. Đúng lúc đó, một con cọp ở đâu xuất hiện, nhảy vào đám
đông, các quan và lính ngự lâm thị vệ hoảng hồn dạt ra, cọp tiếp tục lao
vào thẳng vua Lý Nhân Tông như muốn vồ ăn thịt. May sao có người lái
thuyền, vốn là một ông chài can đảm, tên là Mục Thận, đã nhanh trí tung
cái lưới chùm vào đầu con cọp. Lưới lùng nhùng làm cho cọp lúng túng
không thể thoát ra. Một lúc sau sương mù giảm bớt, nhà vua cùng tùy tùng
bớt sợ, sai quân lính xông vào bắt cọp nhưng kết quả thật bất ngờ:
trong lưới không thấy cọp đâu mà thay vào đó lại là thái sư Lê Văn Thịnh
đang loay hoay trong tấm lưới. Ngay lập tức, Lê Văn Thịnh bị buộc tội
dùng pháp thuật hóa cọp, toan giết vua để cướp ngôi. Lẽ ra phải khép vào
tội tru di tam tộc nhưng vua Lý Nhân Tông thương tình một vị đại thần
có nhiều công lao trong việc nội trị, ngoại giao, lại là người học hành
uyên bác nên không nỡ xư tội chết. Lê Văn Thịnh bị cắt hết chức tước và
phải đày ở trại Thao Giang (có sách nói thuộc Thanh Hóa ngày nay, có
sách nói thuộc Phú Thọ ngày nay) và mất tại đây.
Những câu chuyện sau vụ án
Có sách chép rằng, sở dĩ thái sư Lê Văn Thịnh học
được phép biến hóa thành hổ là do có kẻ gia nô trong nhà vốn là người
Đại Lý (tức Vân Nam, Trung Quốc ngày nay), có phép ảo thuật kỳ lạ nên Lê
Văn Thịnh đã học được của nó và định mưu đồ làm phản. Có sách lại nói,
do vua Lý Nhân Tông không quan tâm đến việc triều chính, Lê Văn Thịnh
nhiều lần khuyên ngăn không được nên đã mượn phép niệm chú hóa hổ để dọa
vua, mục đích để vua sợ và bớt chơi bời, giành thời gian lo việc triều
đình. Sau vụ án này, do sợ liên lụy tới gia đình và dòng họ nên Lê Văn
Thịnh đã quyết định “hóa gia vi tự” (nghĩa là biến nhà ở của mình thành
chùa). Một ngày mưa gió sấm chớp, trời đất tối sầm, bỗng có đám mây ngũ
sắc bay về trời Đông Cứu, trong đám mây có dáng hình Lê Văn Thịnh. Khi
trời quang mây tạnh, không thấy bóng ông nữa. Từ phía chân núi, nhân dân
thấy có đồng đất mối đùn to, bèn đắp thành ngôi mộ và lập đền thờ ông
gần đó. Hôm ấy là ngày mồng 7 tháng giêng, được coi là ngày mất của Lê
Văn Thịnh.
Còn theo sách Thần phả tại Đền Thượng, vùng Bảo Tháp gần quê hương ông thì ghi lại chuyện ông mất như sau: “Vào
phiên chợ Đình Tổ, ngày hai bốn tháng chạp, Lê Văn Thịnh được phép lên
đường từ trại Thao Giang về thăm quê. Do sức yếu nên khi đến đây, ông bị
ngã vào quầy kim dao rồi mất. Nhân dân lo sợ, đặt ông lên thuyền nan
rồi đẩy ra hồ ven sông Dâu, để thi hài trên đám bèo rồi úp thuyền lên.
Ngày hôm sau mối đùn chỗ ấy lên thành mộ. Với quan niệm chết vào giờ
thần linh, nhân dân Đình Tổ đã tôn ông lên làm thành hoàng làng”.
Thời Trần Thái Tông, nhà Nguyên xâm lược
nước ta, kinh thành Thăng Long bị vây hãm. Trần Quốc Tuấn phụng mệnh
triều đình, dẫn cánh quân thủy bộ tiến về phía Đông Bắc. Khi đi đến vùng
Kinh Bắc, phủ Từ Sơn, huyện Quế Dương, trang Chi Nhị, thấy có đền thờ
nên vào lễ và cầu xin thần phù hộ để đánh thắng giặc. Khấn xong bỗng
thấy hiện lên ba chữ “Trạng Nguyên Từ” mặc dù đền không hề có ba chữ ấy.
Thấy lạ, Trần Quốc Tuấn bèn mời bô lão trong làng ra hỏi cho rõ ngọn
nguồn. Hóa ra đó chính là đền thờ Lê Văn Thịnh. Trận đó Trần Quốc Tuấn
thắng lớn, bắt được tướng giặc là Ô Mã Nhi. Ông đã xin triều đình phong
sắc cho quan Trạng với nội dung như sau: “Mỹ tự nhất vị tôn thần. Tế
thế hộ quốc phụ cảm linh ứng triệu mưu, tế tích thiên văn hoành bác
thông minh tuệ trí, hùng lược cũng quyết bản cảnh thành hoàng tri thần”. Đến thời Lê Thái Tổ, sau khi đánh thắng giặc Minh, lại tiếp tục sắc phong cho ông: “Mỹ tự nhất vị hiển ứng linh thiêng triệu mưu thắng toán. Phả tế cương nghị anh linh đại vương”.
Lời giải đáp của các chuyên gia
Các nhà sử học thời kỳ hiện đại không
tin vào chuyện hoang đường, hầu hết đều cho rằng ông bị hàm oan. Có quan
điểm cho rằng “màn kịch” hóa hổ, giết vua được dựng lên từ sự xung đột ý
thức hệ giữa Phật giáo (Quốc giáo) và Nho giáo (mà đứng đầu là Thái sư
Lê Văn Thịnh). Khi Phật giáo cảm thấy địa vị độc tôn của mình bị đe doạ
thì đương nhiên là phải có “giải pháp”. Nhà nghiên cứu Đỗ Huy (Viện
Triết học) từng cho rằng, thực chất vụ án hoá hổ chỉ là màn kịch phản
ánh cuộc đấu tranh giữa hệ tư tưởng Nho giáo mà Lê Văn Thịnh là đại diện
với một bên khác sùng Phật giáo, trong đó có cả Thái hậu Ỷ Lan và vua
Lý Nhân Tông.
Đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh |
Cũng cần nói thêm, vào năm 1085, khi Lê
Văn Thịnh nhậm chức Thái sư cũng là lúc Linh Nhân Hoàng Thái Hậu thôi
nhiếp chính, bắt đầu mải mê với công cuộc xây dựng, tu sửa chùa chiền,
với những khoản kinh phí vô cùng lớn từ quốc khố. Là nhà nho tiết tháo,
đứng đầu các quan, Lê Văn Thịnh không thể không có ý kiến và đây cũng có
thể là nguyên nhân của mối tai hoạ mà ông gặp phải.
Trong khi đó, vua Lý Nhân Tông dù đã đi
cầu khấn khắp các chùa chiền mà mấy chục năm không có con trai. Việc
này, nhà nghiên cứu Trần Văn Lạng (Bảo tàng Hà Bắc cũ) nhận định, khi
đứng vào tình thế bị nhiều người ngấp nghé ngôi báu, Lý Nhân Tông tất
sinh bệnh đa nghi, rất có hại cho kẻ dưới quyền. Vụ việc “hóa hổ” càng
trở nên đáng tin hơn khi ngay thời đó trong dân gian đã lưu truyền rằng,
Lê Văn Thịnh học được nhiều phép thuật, trong đó có phép thả mù, hoá
hổ. Với tâm trạng u uất, đa nghi như vậy, cộng thêm những lời gièm pha,
đồn thổi và một “màn kịch” vào buổi sáng sương mù trên hồ Dâm Đàm, vậy
là ông vua quy cho thày mình cái tội mưu phản.
Tuy ngày nay chúng ta có thể khẳng định
câu chuyện trên là “sản phẩm” của sự hoang đường, nhưng với trình độ
thời đó, khi con người vẫn tin vào các câu chuyện ma quái thì việc Lê
Văn Thịnh “hóa hổ” là có thể xảy ra. Hiện nay, tại quê hương Bắc Ninh
của ông, có tới hai khu di tích được lập ra để thờ ông tại các huyện
Thuận Thành và Gia Bình, được trùng tu nhiều lần.
Bài "Thái sư Lê Văn Thịnh hóa hổ vồ vua Lý Nhân Tông"
Nguồn Internet
Nguồn Internet