"Theo quan điểm của tôi,
mọi biểu tượng hay tượng đài lịch sử chỉ có sức sống bền bỉ trong lịch
sử và trong lòng dân khi được xây dựng trên cơ sở khoa học khách quan,
chân thực" - GS Phan Huy Lê nhấn mạnh sau khi giải thích về hình tượng
nhân vật Lê Văn Tám.
GS Trần Huy Liệu căn dặn chúng tôi phải nói lại
Bấy
giờ là vào đầu những năm 60 của thế kỷ trước, tôi có nhiều dịp làm việc
với GS Trần Huy Liệu trong công trình khoa học do GS chủ trì và tôi
được mời tham gia. Lúc đó, GS Trần Huy Liệu là Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa
học xã hội, kiêm Viện trưởng Viện sử học. Ngoài những buổi họp ban biên
soạn ở cơ quan, tôi có một số buổi làm việc với GS tại nhà riêng.
Ngoài công việc biên soạn công trình, GS thường trao đổi một cách thân
tình những vấn đề thời sự sử học trong và ngoài nước, kể lại một số
chuyện trong đời hoạt động cách mạng của mình. Trong những năm 1954 -
1956, khi tôi đang học ở trường Đại học Sư phạm/văn khoa Hà Nội, GS Trần
Huy Liệu có đến giảng một số bài về cách mạng Việt Nam.
Về câu
chuyện Lê Văn Tám, tôi xin được tóm lược một cách đầy đủ lời kể và lời
dặn của GS Trần Huy Liệu mà tôi đã lĩnh hội như sau: Nhân vụ kho xăng
của địch ở Thị Nghè bị đốt cháy vào khoảng tháng 10 - 1945 và được loan
tin rộng rãi trên báo chí trong nước và đài phát thanh của Pháp, đài BBC
của Anh; nhưng không biết ai là người tổ chức và trực tiếp đốt kho xăng
nên tôi (GS Trần Huy Liệu) đã "dựng" lên câu chuyện thiếu niên Lê Văn
Tám tẩm xăng vào người rồi xông vào đốt kho xăng địch cách đấy mấy chục
mét.
GS Trần Huy Liệu còn cho biết là sau khi ta phát tin này
thì đài BBC đưa tin ngay, và hôm sau bình luận: Một cậu bé tẩm xăng vào
người rồi tự đốt cháy thì sẽ gục ngay tại chỗ, hay nhiều lắm là chỉ lảo
đảo được mấy bước, không thể chạy được mấy chục mét đến kho xăng. GS đã
tự trách là vì thiếu cân nhắc về khoa học nên có chỗ chưa hợp lý. Đây là
ý kiến của GS Trần Huy Liệu mà sau này tôi có trao đổi với vài bác sĩ
để xác nhận thêm.
Tôi nhấn mạnh là GS Trần Huy Liệu không hề “hư
cấu” sự kiện kho xăng địch ở Thị Nghè bị đốt cháy mà trên cơ sở sự kiện
có thật đó, chỉ “dựng lên”, theo cách nói của GS, chuyện thiếu niên Lê
Văn Tám tẩm xăng đốt cháy kho xăng địch.
GS giải thích là thời
Nam Bộ kháng chiến, có bao nhiêu tấm gương hy sinh vì Tổ quốc, nhưng
“dựng” chuyện thiếu niên Lê Văn Tám là nghĩ đến biểu tượng cậu bé anh
hùng làng Gióng (Phù Đổng Thiên Vương), còn việc đặt tên Lê Văn Tám là
vì họ Lê Văn rất phổ biến ở nước ta và Tám là nghĩ đến Cách mạng tháng
Tám.
Lúc bấy giờ, GS Trần Huy Liệu đang giữ chức Bộ trưởng Bộ
Thông tin tuyên truyền trong Chính phủ lâm thời, nên GS nói rõ là muốn
tạo dựng nên một biểu tượng anh hùng để tuyên truyền, cổ vũ tinh thần
chiến đấu của quân dân ta.
Cũng xin lưu ý là GS Trần Huy Liệu giữ
chức Bộ trưởng Bộ Thông tin tuyên truyền trong Chính phủ lâm thời từ
ngày 28 - 8 - 1945 đến ngày 1 - 1 - 1946, rồi Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền
cổ động trong Chính phủ liên hiệp lâm thời từ ngày 1 - 1 - 1946 cho đến
khi thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến tại kỳ họp Quốc hội ngày 2
- 3 - 1946, nghĩa là trong thời gian xảy ra sự kiện Kho xăng Thị Nghè
bị đốt cháy, chứ không phải trong thời gian “1946 - 1948?” sau sự kiện
trên.
Điều căn dặn của GS Trần Huy Liệu là: Sau này khi đất nước
yên ổn, các anh là nhà sử học, nên nói lại giùm tôi, lỡ khi đó tôi không
còn nữa. Trong câu chuyện, GS còn tiên lượng là biết đâu sau này có
người đi tìm tung tích nhân vật Lê Văn Tám hay có người lại tự nhận là
hậu duệ của gia đình, họ hàng người anh hùng. Đây chính là điều lắng
đọng sâu nhất trong tâm trí mà tôi coi là trách nhiệm đối với GS Trần
Huy Liệu đã quá cố và đối với lịch sử.
GS Trần Huy Liệu là một
con người rất trung thực, không muốn để lại một sự ngộ nhận trong lịch
sử do mình tạo nên trong một bối cảnh và yêu cầu bức xúc của cuộc kháng
chiến và tôi lĩnh hội lời dặn của GS như một trách nhiệm phải thực hiện
một cách nghiêm túc.
Tôi kể lại câu chuyện này một cách trung thực với tất cả trách nhiệm và danh dự của một công dân, một nhà sử học.
Ngày nay, từ đầu thế kỷ XXI nhìn lại, trong hoàn cảnh chiến tranh đã
lùi xa vào quá khứ hơn 30 năm, đất nước đã giành lại độc lập, thống
nhất, tôi xin đặt ra hai vấn đề sau đây để thế hệ chúng ta cùng bàn
luận.
- Xác minh rõ sự kiện Kho xăng địch bị đốt cháy trong tháng 10-1945.
- Thái độ ứng xử đối với biểu tượng Lê Văn Tám.
Vấn đề thứ nhất là cần cố gắng sưu tầm tư liệu đáng tin cậy để xác định
rõ hơn sự kiện Kho xăng địch ở Thị Nghè bị đốt cháy trong tháng
10-1945:
Tôi nói tư liệu đáng tin cậy trong trường hợp này không
phải là các sách báo viết về sau này, mà là tư liệu gốc khai thác từ
nhân chứng lịch sử hay những thông tin trực tiếp từ sự kiện thời bấy giờ
và dĩ nhiên đều phải đối chiếu, xác minh một cách khoa học.
Nhân chứng lịch sử:
Tôi đã có dịp hỏi GS Trần Văn Giàu - lúc đó giữ chức Chủ tịch Ủy ban
kháng chiến Nam bộ, thì GS khẳng định có sự kiện Kho xăng địch ở Thị
Nghè bị đốt cháy và trong tình hình lúc đó là do ta đốt, nhưng không
biết ai tổ chức và người nào thực hiện.
Nhà cách mạng lão thành
Dương Quang Đông trong hồi ký viết rằng, người đốt Kho đạn Thị Nghè ngày
1-1-1946 không phải là Lê Văn Tám mà là tổ đánh mìn của công nhân nhà
máy đèn Chợ Quán (tạp chí Xưa & Nay số 154).
Tư liệu báo chí:
Tư liệu báo chí lúc bấy giờ thì tại Thư viện quốc gia Hà Nội lưu giữ
được rất ít, các số báo lại không đủ. Bước đầu tôi mới tìm thấy thông
tin liên quan với Kho xăng Thị Nghè bị đốt cháy trong báo Quyết chiến là
“cơ quan ủng hộ chính quyền nhân dân”, tòa soạn đặt ở phố Nguyễn Tri
Phương, Thuận Hóa; báo Cờ giải phóng là “cơ quan tuyên truyền cổ động
trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương” và báo Thời mới do Nguyễn Văn Luận
làm Chủ nhiệm; nhưng các số không liên tục, không đủ.
Báo Quyết
chiến số ngày thứ sáu, ?- 10 - 1945 đưa tin dưới tít lớn Một chiến sĩ ta
tẩm dầu vào mình đốt cháy kho dầu Simon Píetri với nội dung như sau:
“Một gương hi sinh vô cùng dũng cảm. Một chiến sĩ ta tẩm dầu vào mình tự
làm mồi lửa đã đốt được kho dầu Simon Píetri, lửa cháy luôn hai đêm hai
ngày.
Đài Sài Gòn trong buổi truyền thanh tối 17 - 10 công nhận
rằng kho dầu này đã hoàn toàn bị thiêu ra tro, sự thiệt hại đến mấy
chục triệu đồng”.
Ngày phát hành số báo, in ngày “thứ sáu”, số
ngày không rõ và có người viết thêm bút mực con số 7, tiếp theo là tháng
“10 - 45”. Theo lịch năm 1945, trong tháng 10 có 3 ngày thứ sáu là ngày
12, 19 và 26. Trong bản tin có nhắc đến buổi phát thanh của Đài Sài Gòn
ngày 17, vậy ngày thứ sáu của tờ báo phải sau ngày đó và có thể xác
định là ngày 19 - 10 - 1945.
Báo Thời mới số 6 ngày 28 - 10 -
1945, nhân lễ khai mạc Ngày Cứu quốc do Tổng hội sinh viên cứu quốc tổ
chức, đăng bài Những chuyện cảm động của dân ta trong cuộc kháng chiến ở
Nam Bộ, có đoạn kể lại câu chuyện đốt kho xăng ở Sài Gòn theo lời kể
của một người từ Nam Bộ ra Hà Nội ngày 21-10-1945 như sau: “Một người
bạn tôi ở Nam Bộ vừa ra đây hôm hai mươi mốt kể cho tôi nghe nhiều điều
tai nghe mắt thấy ở Nam Bộ để chứng cho cái tinh thần kháng chiến anh
dũng đó. Thứ nhất là chuyện anh dân quân tẩm dầu vào người, đốt cháy kho
ét-săng và cao su sống ở Sài Gòn.
Có người nói rằng nhà chiến
sĩ tuẫn quốc này tự nguyện xin mặc áo bông giầy tẩm xăng rồi lấy lửa tự
châm mình như một cây đinh liệu, xông vào kho cao su sống kia. Không
phải thế. Làm thế thì cố nhiên giặc Pháp ngăn lại ngay từ khi chưa tới
cửa kho.
Thực ra thì nhà chiến sĩ của chúng ta phải dùng mưu
nhiều lắm. Trước khi vào, anh em mọi Pleiku của chúng ta đã phải lừa lúc
giặc Pháp canh phòng không cẩn thận, trèo lên những cái cây to ở xung
quanh kho cao su, bắn tên độc vào những người gác ở bốn bề. Nhà chiến
sĩ, nhằm chính lúc cơ hội thuận tiện đã đến, tẩm dầu vào người, đeo súng
liên thanh, bò qua tường vào trong kho cao su tìm bắn những người Pháp.
Chúng bâu lại như đàn ruồi.
Chiến sĩ Việt Nam biết không thể
làm hơn được nữa, bắn lia lịa vào những thùng ét-săng ở hai bên, ét-săng
tràn ra cả nhà. Chiến sĩ ta châm một mồi riêm vào người, nhảy lên đám
thùng rỗng, chửi rủa giặc Pháp tàn tệ.
Trong lúc đó, cả mình mẩy
anh bừng bừng lên. Anh vẫn chửi rủa giặc Pháp cho đến khi gục nằm xuống
như một đấng thiên thần hiện ra rồi mờ đi trong giấc mơ dữ dội. Những
người đứng xa ngoài ba mươi cây số còn trông thấy ngọn lửa đám cháy này
và trong hai ba ngày đêm liền, giặc Pháp và phái bộ Anh không thể nào
rập tắt”.
Báo Cờ giải phóng số ra ngày 25-10-1945, đưa lên trang
đầu hình ảnh một người đang bốc cháy xông về phía trước kèm theo lời
“Tinh thần anh dũng của đồng bào Nam Bộ muôn năm”.
Báo Cờ giải
phóng ngày 5-11-1945, trong mục Mặc niệm: "trích đăng một vài tấm gương
xung phong anh dũng đã được nêu lên trên mặt báo chí miền Nam”, có đoạn
đưa tin: “Trước kho đạn Thị Nghè có rất đông lính Anh, Ấn, Pháp gác
nghiêm ngặt, khó bề đến gần phóng hỏa.
Một em thiếu sinh 16
tuổi, nhất định không nói tên họ, làng, tình nguyện ra lấy thân mình làm
mồi dẫn hỏa. Em quấn vải quanh mình, tẩm dầu xăng, sau lưng đeo một cái
mồi, đứng im đốt mồi lửa, miệng tung hô “Việt Nam vạn tuế”, chân chạy
đâm sầm vào kho đạn. Lính Anh đứng trong bắn ra như mưa. Một lần trúng
đạn, em ngã nhào xuống, nhưng rồi ngồi dậy chạy luồn vào.
Lính Anh khiếp đảm bỏ chạy ra ngoài. Một tiếng nổ. Em thiếu sinh tiêu tán cùng với kho đạn Thị Nghè của giặc”.
Dưới
bản tin có ghi chú “Kèn gọi lính, ngày 8 - 10 - 1945”. Như vậy báo đưa
tin theo tin của báo Kèn gọi lính ngày 8 - 10 - 1945 và theo đó, kho đạn
bị đốt cháy phải trước ngày 8 - 10 - 1945, ít ra là ngày 7-10-1945.
Trên đây là một số thông tin lấy từ báo chí ở thời điểm gần nhất với sự
kiện liên quan đến chuyện Lê Văn Tám. Tôi hi vọng là những người quan
tâm đến chuyện này có thể tìm kiếm và thu thập thêm thông tin báo chí mà
tôi chưa được tiếp cận.
Còn sự kiện quân ta phá nổ kho đạn của
địch ở Sài Gòn ngày 8-4-1946 mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói đến trong
hồi ký "Những năm tháng không thể nào quên" thuộc giai đoạn sau, không
liên quan đến chuyện Lê Văn Tám.
Trong những báo trên, thông tin
sớm nhất là "Kèn gọi lính" do báo Cờ giải phóng trích đăng ngày
5-11-1945. Rất tiếc là tôi không tìm thấy báo Kèn gọi lính mà căn cứ
theo đoạn trích của Cờ giải phóng. Theo thông tin này thì “một em thiếu
nhi 16 tuổi” đốt kho đạn Thị Nghè trước ngày 8-10-1945, chứ không phải
kho xăng Thị Nghè.
Báo Quyết Chiến ngày 19? - 10 - 1945 lại đưa
tin “kho dầu Simon Píetri” bị “một chiến sĩ ta” đốt cháy vào trước ngày
17 - 10 - 1945. Kho đạn ở Sở thú và kho xăng ở Thị Nghè là hai địa điểm
gần nhau. Như vậy theo những thông tin gần thời điểm xảy ra sự kiện thì
vẫn còn phải tìm thêm cứ liệu để xác định là kho đạn hay kho xăng và
thời điểm là ngày nào, chắc hẳn trước ngày 17 - 10 - 1945.
Rồi
người thực hiện là “em thiếu nhi 16 tuổi” (Kèn gọi lính) hay “một chiến
sĩ ta” (Quyết chiến) hay “anh dân quân tẩm dầu vào người” (Thời mới).
Việc tẩm xăng vào người, lúc đó cũng đã gây ra sự bàn luận.
Thời
mới đã bác bỏ chuyện người chiến sĩ tẩm dầu vào người xông vào kho xăng
vì “không phải thế, làm thế thì cố nhiên giặc Pháp ngăn lại ngay từ khi
chưa tới cửa kho” và cho rằng người chiến sĩ phải “dùng mưu nhiều lắm”
để lẻn vào gần kho xăng rồi mới “tẩm dầu vào người”, dùng súng bắn thủng
các thùng xăng và châm diêm vào người, nhảy vào đám thùng xăng. Không
biết tác giả dựa trên căn cứ nào nhưng về khách quan, cách trình bày này
hợp lý hơn.
Với những thông tin đã tập hợp, tuy chưa đủ và còn
một số khía cạnh chưa xác minh được (kho xăng hay kho đạn, thời điểm,
người đốt) nhưng sự kiện kho xăng (hay đạn) của địch ở Thị Nghè (hay gần
Thị Nghè) bị ta đốt cháy là có thật.
Ngay lúc đó, trên báo chí
đã xuất hiện những thông tin khác nhau về người đốt và cách đốt kho
xăng, tuy nhiên có điểm chung là gắn với hình ảnh một chiến sĩ tẩm xăng
đốt cháy kho xăng địch và không có tên Lê Văn Tám hay tính danh của
người chiến sĩ đã hi sinh.
Điểm lại những tư liệu đã thu thập
được thì càng thấy rõ, trên cơ sở sự kiện có thật và cả dư luận về hình
ảnh người chiến sĩ tẩm xăng thời đó, GS Trần Huy Liệu tạo dựng nên biểu
tượng “ngọn đuốc sống” gắn với tên tuổi thiếu niên Lê Văn Tám.
Vấn đề thứ hai là cách ứng xử đối với biểu tượng “ngọn đuốc sống Lê Văn Tám”:
Trong bàn luận, cũng có người nghĩ rằng, “ngọn đuốc sống Lê Văn Tám” đã
đi vào lòng dân rồi, các nhà sử học không cần xác minh nhân vật đó có
thật hay không, làm ảnh hưởng tới một “biểu tượng”, một “tượng đài” yêu
nước. Tôi quan niệm hoàn toàn khác.
Đối với sử học, tôn trọng sự
thật, tìm ra sự thật, xác minh sự thật là một nguyên tắc cao cả thuộc về
phẩm chất và chức năng của nhà sử học. Dĩ nhiên, với trách nhiệm công
dân, có những sự thật trong một bối cảnh cụ thể nào đó liên quan đến bí
mật quốc gia hay ảnh hưởng đến lợi ích sống còn của dân tộc, nhà sử học
chưa được công bố.
Về nguyên lý, mọi kết quả nghiên cứu sử học
càng khách quan và trung thực, càng có tác dụng tích cực xây dựng nhận
thức lịch sử đúng đắn và không có gì mâu thuẫn với các biểu tượng lịch
sử, các tượng đài yêu nước có giá trị được nhân dân tôn vinh.
Ngay đối với những biểu tượng mang tính huyền thoại, truyền thuyết như
Lạc Long Quân - Âu Cơ, Con Rồng-Cháu Tiên, Phù Đổng Thiên Vương, nỏ thần
An Dương Vương, vua Lê trả Gươm thần ở hồ Hoàn Kiếm..., kết quả nghiên
cứu khoa học chỉ góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học, cốt lõi lịch sử
của biểu tượng.
Ví dụ những phát hiện khảo cổ học về đồ sắt trong
văn hóa Đông Sơn, kho mũi tên đồng ở Cổ Loa và gần đây, hệ thống lò đúc
mũi tên đồng ngay trong thành Nội của thành Cổ Loa, giúp chúng ta hiểu
sâu sắc hơn cốt lõi lịch sử của hình ảnh ngựa sắt của Thánh Gióng, vai
trò của nỏ thần của An Dương Vương. Chuyện vua Lê trả Gươm thần ở hồ
Hoàn Kiếm vẫn nguyên giá trị thiêng liêng, không hề bị ảnh hưởng bởi
việc nghiên cứu giống rùa và tuổi thọ của rùa Hồ Gươm...
Biểu
tượng “ngọn đuốc sống Lê Văn Tám” thực sự đã được quảng bá rộng rãi, đi
sâu vào tâm thức của nhân dân, tiêu biểu cho tinh thần hi sinh anh dũng,
ý chí xả thân vì nước của quân dân ta trong buổi đầu của Nam kỳ kháng
chiến. Một số đường phố, trường học, công viên hiện nay đã mang tên Lê
Văn Tám. Lời dặn của GS Trần Huy Liệu là đến lúc đất nước yên ổn, cần
phải nói lên sự thật về câu chuyện Lê Văn Tám.
Đó không phải là
tên của nhân vật lịch sử có thật, nhưng phản ánh một sự kiện lịch sử có
thật, một tinh thần hi sinh vì Tổ quốc có thật. Đó là một biểu tượng đã
đi vào lịch sử mang tính phổ biến và thiêng liêng. Trả lại nguồn gốc
thật của biểu tượng này là để tạo lập một nền tảng nhận thức khoa học,
khách quan về quá trình hình thành biểu tượng Lê Văn Tám.
Tôi
nghĩ rằng tất cả các đường phố, trường học, công viên... mang tên Lê Văn
Tám vẫn để nguyên, vẫn được tôn trọng như một biểu tượng với nội dung
giải thích đúng sự thật và ngăn chặn mọi ý đồ dựng lên lý lịch Lê Văn
Tám như một nhân vật có thật rồi có người lại nhận là hậu duệ của nhân
vật này.
Đến đây, tôi đã làm tròn trách nhiệm đối với lời dặn của
cố GS Trần Huy Liệu, kèm thêm một số đề xuất để xử lý câu chuyện Lê Văn
Tám. Tôi hoàn toàn không coi đấy là việc làm trái với phẩm chất trung
thực hay lương tâm của nhà sử học, cũng không ảnh hưởng đến uy tín của
GS Trần Huy Liệu và càng không làm đổ một biểu tượng hay tượng đài yêu
nước. Tôi nhấn mạnh, theo quan điểm của tôi, mọi biểu tượng hay tượng
đài lịch sử chỉ có sức sống bền bỉ trong lịch sử và trong lòng dân khi
được xây dựng trên cơ sở khoa học khách quan, chân thực.
GS Phan Huy Lê (Bài đăng trên Tạp chí Xưa&Nay số ra tháng 10 năm 2009)
Theo baomoi.com